Mặc dù vào tổ chức thi công và kiểm tra tuyến đường TTBG Thanh Hóa từ tháng 12 năm 2009, thường xuyên đi theo đường Hồ Chí Minh rất nhiều lần qua Lam Kinh nhưng đều vội nên không ghé vào thăm được. Ngày 22 tháng 2 năm 2012 nhân giao ban quý I tại Lang Chánh (sau khi kiểm tra tuyến tại Bát Mọt,Thường Xuân) mấy anh em rủ nhau qua thắp hương vua Lê Thái Tổ và thăm quan di tích Lam Kinh trước khi về giao ban.
7 giờ xuất phát từ Thị trấn Thường Xuân qua cầu Bái Thượng ra thị trấn Mục Sơn qua Sông Chu chúng tôi đến Lam Kinh lúc 8 giờ 10.Vào liên hệ với ban quản lý di tích ,chúng tôi được một hướng dẫn viên nam đưa đi tham quan.
Do chiều còn giao ban, thời gian có hạn nên chúng chỉ đi vào những nơi chính như: điện Lam Kinh, Khu Thái Miếu, Bia Vĩnh Lăng, Lăng vua Lê Thái Tổ mà không còn thời gian thăm lăng mộ khác. Đúng là đi một ngày đàng.... Để biết thêm một địa danh Lịch sử của đất nước.
Dưới đây là chùm ảnh và Videocủa tôi và các bài viết về LamKinh Theo Wikipedia
Khu di tích lịch sử Lam Kinh cách
thành phố Thanh Hóa 50 km về phía Tây Bắc, nằm trên địa bàn xã Xuân Lam ,
Thọ Xuân,
Thanh Hóa. Đây là một di tích lịch sử cấp quốc gia từ năm 1962. Năm 2013, khu di tích này được công nhận là
di tích quốc gia đặc biệt.
Nhân vật tạo lập ra Lam Kinh là
Lê Thái Tổ. Sau 10 năm lãnh đạo cuộc
khởi nghĩa Lam Sơn (1418 - 1428) đánh đuổi giặc
nhà Minh và lên ngôi hoàng đế đóng đô ở Đông Kinh (
Thăng Long), vua Thái Tổ lấy niên hiệu là Thuận Thiên thứ nhất. Đồng thời nhà vua cho xây dựng ở quê hương đất tổ
Lam Sơn một kinh thành gọi là Lam Kinh hay còn gọi là Tây Kinh.
Thành điện Lam kinh phía Bắc dựa vào núi Dầu mặt Nam nhìn ra
sông Chu - có núi Chúa làm tiền án, bên tả là rừng Phú Lâm, bên hữu là núi Hương và
núi Hàm Rồng
chắn phía Tây. Khu Hoàng thành, cung điện và Thái miếu ở Lam Kinh được
bố trí xây dựng theo trục Nam - Bắc trên một khoảng đồi gò có hình dáng
chữ vương. Bốn mặt xây thành có chiều dài 314m, bề ngang 254m, tường
thành phía Bắc hình cánh cung có bán kính 164m, thành dày 1m. Qua khảo
cổ và dấu tích còn lại cho thấy xưa kia ở đây đã từng tồn tại Ngọ môn,
sân rồng, chính điện, khu Thái miếu... nguy nga tráng lệ đang được trùng tu và xây dựng lại.
Bản đồ khu di tích
Lối vào
Khu Thái Miếu
Lăng Mộ vua Lê Thái Tổ
Lăng
Lê Thái Tổ
được xây dựng trên một dải đất bằng phẳng cách điện Lam Kinh 50 m. Vĩnh
Lăng được chọn đặt một thế rất đẹp, phía trước có minh đường rộng rãi
và tiền án là núi Chúa, phía sau có gối tựa là núi Dầu, hai bên tả, hữu
có hai dãy núi tạo thế "hổ phục rồng chầu". Đối diện lại có sông làm
"bạch hổ".
Bố cục và phong cách mai táng của Vĩnh lăng đơn giản nhưng tôn
nghiêm, tự nhiên và trang nhã. Lăng đắp đất hình lập phương, xung quanh
xây chèn bằng đá đục ở bên ngoài, có kích thước 4,4 x 1 m. Trước Lăng có
hai hàng tượng quan hầu và tượng các con giống tạc bằng đá dựng ở đây
để trấn trạch (bốn đôi con giống đối nhau theo thứ tự hai
nghê, hai
ngựa, hai
tê giác, hai
hổ).
Giữa hai hàng tượng chầu vào là một lối đi rộng 2m25 gọi là đường "thần
đạo". Nhìn toàn cảnh lăng Lê Thái Tổ ( Vĩnh lăng) thật giản dị, gần gũi
song rất tôn nghiêm và trang trọng
Mộ vua Lý Thái Tổ
"Cây ổi cười" trong lăng mộ vua Lê Thái Tổ
Bia Vĩnh Lăng
Bia Vĩnh Lăng được dựng cách lăng 300m đường chim bay ở Tây Nam thành
điện Lam Kinh. Bia làm bằng đá trầm tích biển nguyên khối cao 2,97m;
rộng1,94m; dày 0,27m; đặt trên lưng một con rùa lớn cũng được tạc từ đá
trầm tích biển nguyên khối có chiều dài 3,46m; rộng 1,9m; cao 0,94m kể
cả đế.
Nhà bia được dựng lại năm
1961 nền nhà có hình gần vuông mỗi cạnh là 8,80m và nhà có 4 mái cong lợp
ngói mũi hài, dưới được đỡ bằng 16 cột, mỗi góc 4 cột theo kiểu
nhà Lê. Nghệ thuật trang trí tinh xảo, phong cách trang trí trên bia phù hợp với nội dung văn bia do
Nguyễn Trãi soạn. Văn bia ngắn gọn, cô đọng phản ánh đầy đủ thân thế, sự nghiệp công lao của vua
Lê Thái Tổ.
Bia Vĩnh Lăng